Nắm quyền và cầm quyền từ năm 1977-1989 Đặng Tiểu Bình

Sau khi Mao qua đời vào ngày 9 tháng 9 năm 1976 và loại trở Bè lũ bốn tên vào tháng 11 năm 1976, Đặng nổi lên như một lãnh đạo trên thực tế của Trung Quốc. Trước khi Mao mất, chỉ có vị trí trong chính phủ ông đang giữ là Phó thủ tướng thứ nhất của Hội đồng nhà nước, nhưng Hoa Quốc Phong muốn loại bỏ những thành phần cực đoan trong Đảng và thành công loại trừ Bè lũ bốn tên. Vào ngày 22 tháng 7 năm 1977, Đặng được phục hồi chức vụ Phó chủ tịch của Ủy ban trung ương, Phó Chủ tịch của Ủy ban quân sự và Tổng tư lệnh của Bộ tổng tham mưu Quân giải phóng Trung Quốc.[15]

Bằng sự chuẩn bị kĩ lưỡng huy động sự ủng hộ trong nội bộ đảng, Đặng đã đánh bại Hoa, người từng xá tội cho ông và loại bỏ Hoa khỏi vị trí lãnh đạo cấp cao đang nắm giữ vào khoảng năm 1980.[16][17]

Cho phép những phê bình

Đặng bãi bỏ Cách mạng Văn hóa và trong năm 1977 và đưa ra “Mùa xuân Bắc Kinh”. Trong khi đó, ông đã thúc đẩy việc bãi bỏ hệ thống lý lịch giai cấp. Dưới hệ thống này, Đảng cộng sản Trung Quốc đã cởi bỏ những rào chắn cho những người mà được cho là có liên hệ với giai cấp địa chủ; sự cởi bỏ của nó đã cho phép một nhóm người ủng hộ khôi phục thị trường tư nhân để họ gia nhập Đảng cộng sản.

Đặng đã dần dần loại bỏ những đối thủ chính trị của ông. Bằng cách khuyến khích những chỉ trích đại chúng về Cách mạng văn hóa, ông đã làm suy yếu những người mà đã có được vị trí hiện tại của họ nhờ những việc họ đã làm trong sự kiện, trong khi củng cố những vị trí đồng minh của ông mà đã bị thanh trừng trong thời gian này. Đặng cũng nhận được một thỏa thuận lớn về sự ủng hộ của người dân. Khi Đặng dần dần củng cố quyền lực ở Đảng cộng sản, Hoa đã được thay thế bởi Triệu Tử Dương với vai trò thủ tướng năm 1980, và bằng Hồ Diệu Bang với chức vụ Tổng bí thư năm 1981, mặc dù trong thực tế Hoa là người được Mao Trạch Đông chọn như người kế tục ông với tư cách là "lãnh đạo tối cao" của Đảng cộng sản Trung Quốc và Cộng hòa nhân dân Trung Quốc.

Những quyết định quan trọng đã luôn được thực hiện ở nhà của Đặng ở Trung Nam Hải với một cuộc họp riêng với 8 cán bộ cao cấp khác, được gọi là Bát đại nguyên lão, đặc biệt với Trần VânLý Tiên Niệm. Đặng đã nắm quyền hành với tư cách là "lãnh tụ tối cao" mặc dù ông chưa bao giờ giữ những vị trí hàng đầu của đảng, và đã dần dần loại bỏ ba lãnh đạo đảng, bao gồm Hồ Diệu Bang. Đặng vẫn còn ảnh hưởng lớn tới Đảng cộng sản Trung Quốc, tuy nhiên sau năm 1987 những chức vụ của ông chỉ là chủ tịch nước và chủ tịch Ủy ban quân sự trung ương Đảng cộng sản.

Vị trí của Mao ở Trung Quốc

Với việc Đặng trở thành nhân vật số một mới của Trung Quốc có nghĩa rằng các vấn đề lịch sử và tư tưởng xung quoanh Mao Trạch Đông phải được giải quyết thích đáng. Bởi vì Đặng mong muốn những cải cách sâu rộng, nó đã không thể cho ông tiếp tục theo con đường cứng rắn của Mao là những chính sách "đấu tranh giai cấp" và những chiến dịch đại chúng. Trong năm 1982 Ban chấp hành TW Đảng đã phát hành một tài liệu được đặt tên là "Bàn về những vấn đề lịch sử khác nhau kể từ sự thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Quốc". Mao vẫn giữ địa vị của ông như là một "người Mác xít, nhà cách mạng vô sản, quân sự vĩ đại", và là người thành lập và dẫn đường không thể chối cãi của đất nước và quân đội. "Những chính sách tốt của ông phải được xem xét trước những sai lầm của ông", tài iệu đã viết công khai. Bản thân Đặng đã bình luận rằng Mao: "bảy phần tốt, ba phần xấu". Tài liệu cũng đưa Mao ra khỏi những trách nhiệm chính của ông về Cách mạng Văn hóa (mặc dù nó đã tuyên bố rằng " Sai lầm của Mao đã bắt đầu Cách mạng văn hóa) để "chống lại bè lũ cách mạng" của Bè lũ bốn tên và Lâm Bưu.

Quan hệ quốc tế

Tháng 22 năm 1978, sau khi đã ổn định đất nước sau hỗn loạn chính trị, Đặng đã thăm Bangkok, Kuala Lumper và Singapo và đã gặp Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long. Đặng đã rất ấn tượng với sự phát triển kinh tế của Singapore, cây xanh, nhà ở, và sau đã gửi mười nghìn người Trung Quốc tới Singapore và các nước khắp thế giới để học những kinh nghiệm của họ và mang những kiến thức họ trở lại phục vụ đất nước.Lý Hiển Long, đã khuyên Đặng dừng vệc đưa Hệ tư tưởng Cộng sản tới Đông Nam Á, lời khuyên mà Đặng sau đó nghe theo.[18][19]

Nhờ sự ủng hộ của những lãnh đạo đảng khác những người đã phục hồi lại những vị trí của họ, trong năm 1978 việc nắm quyền của Đặng là không thể tránh được. Mặc dù Hoa Quốc Phong giữ chính thức những vị trí cấp cao trong Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, vị trí của ông, với sự ủng hộ ít ỏi, trở nên càng khó khăn. Vào năm 1978, trong suốt thời gian Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 11, Đặng đã nắm quyền.[20]

Đặng và Jimmy Carter tại lễ tiếp đón Đặng và vợ ông được chỉ dẫn bởi Johnson Space Center Giám đốc Christopher C. Kraft

Bắt đầu năm 1979, những cải cách kinh tế đã được thúc đẩy mô hình thị trường, trong khi những lãnh đạo vẫn giữ phong cách hùng biện kiểu Cộng sản cũ. Hệ thống hợp tác xã lần lượt được hủy bỏ và những người nông dân đã bắt đầu nhiều tự do hơn để quản lý đất đai họ đã canh tác và bán sản phẩm của họ ra chợ. Tại thời điểm đó, nền kinh tế Trung Quốc đã mở cửa để buôn bán quốc tế. Vào ngày 1, tháng 1 năm 1979, Hoa Kỳ đã công nhận Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, gạt Đài Loan sang một bên, và việc tiếp xúc giữa Trung Quốc và phương Tây đã bắt đầu phát triển. Vào cuối năm 1978, công ty hàng không vũ trụ Boeing đã thông báo bán Boeing 747 cho nhiều hãng máy bay ở Trung Quốc, và công ty đồ uống Coca-Cola đã công bố đại chúng ý định của họ mở kế hoạch sản xuất tại Thượng Hải.

Đầu năm 1979, Đặng đã nhận một lời mời thăm chính thức từ Hoa Kỳ, gặp Tổng thống Jimmy Carter ở Washington cũng như gặp nhiều nghị sỹ. Trung Quốc đã khẳng định rằng cựu tổng thống Richard Nixon được mời tới buổi tiệc chính thức ở Nhà Trắng, một biểu tượng biểu thị thái độ quả quyết của họ và mặt khác, mong muốn của họ với sáng kiến của Nixon. Trong suốt chuyến thăm; Đặng đã thăm Trung tâm không gian JohnsonHouston, cũng như văn phòng chính của Coca-Cola và Boeing ở AtlantaSeatle. Với những cuộc viếng thăm ý nghĩa, Đặng đã thể hiện rõ ràng rằng những ưu tiên hàng đầu của một chế độ Trung Quốc mới là phát triển kinh tế và khoa học kĩ thuật.

Mối quan hệ Trung Nhật cũng đã cải thiện đáng kể. Đặng đã dùng Nhật Bản như một bài học về một cường quốc đang phát triển nhanh chóng, thiết lập một ví dụ điển hình cho nền kinh tế Trung Quốc.[21]

Bốn hiện đại hóa, kinh tế, nông nghiệp, khoa học, phòng thủ

Đặng đã trích dẫn câu tục ngữ"Vấn đề không phải là mèo trắng hay mèo đen, nếu nó bắt chuột nó là một con mèo tốt". Quan điểm đã chính là những phương thức chủ nghĩa tư bản đã vận hành. Đặng đã làm việc với đội của ông, đặc biệt là Triệu Tử Dương, người năm 1980 đã thay thế Hoa Quốc Phong làm thủ tướng, và Hồ Diệu Bang, người năm 1980 đã giữ vị trí tổng bí thư đảng. Đặng như vậy đã nắm quyền lực và bắt đầu tập trung vào những mục tiêu của "bốn hiện đại hóa"(kinh tế, nông nghiệp, khoa học và phát triển kĩ thuật và phòng thủ đất nước). Ông đã tuyên bố một kế hoạch tham vọng về việc mở cửa và mở rộng tự do kinh tế. Chỉ trong một vài năm họ đã làm những điều kì diệu khi cả thế giới đã theo dõi trong kinh ngạc.[22][23]

Vị trí quyền lực cuối cùng vẫn giữ bởi Hoa Quốc Phong, chủ tịch Ủy ban quân sự Trung ương, đã bị tước đi bởi Đặng năm 1981. Tuy nhiên quá trình hiện đại hóa quân đội thực hiện chậm chạp. Một cuộc chiến biên giới thực sự đang diễn ra với Việt nam trong năm 1977-79 đã gây ra những thay đổi thiếu khôn ngoan. Cuộc chiến làm hoang mang cho giới quan sát, nhưng Xiaoming Zhang thuyết phục Đặng rằng cuộc chiến có nhiều mục tiêu: dừng sự mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô trong khu vực, đạt dược sự ủng hộ của Hoa Kì cho bốn mục tiêu hiện đại hóa của ông, và huy động Trung Quốc cho cuộc cải tổ và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đặng cũng tìm cách củng cố quyền lực của ông ở quân đội Trung Quốc, và chứng minh cho thế giới rằng Trung Quốc có khả năng chiến đấu trong một cuộc chiến thật sự. Zhang nghĩ sự trừng phạt Việt Nam do việc họ đã xâm lược Campuchia là một nguyên nhân không quan trọng. Trong sự kiện này, lực lượng Trung Quốc đã quá yếu kém, trong những điều như trang thiết bị, chiến thuật, lãnh đạo, và thành tích chiến trường. Sự đe dọa chính quân sự của Trung Quốc đến từ Liên Xô, nước mạnh hơn nhiều về quân sự tuy nhiên ít lính hơn bởi vì Liên Xô đã đi xa hơn trong tất cả các loại vũ khí công nghệ. Đặng đã quyết định rằng Trung Quốc đầu tiên phải có một sự tiến bộ về cơ sở hạng tầng khoa học dân sự trước khi nó có thể hi vọng làm ra những vũ khí hiện đại. Vì vậy ông đã tập trung việc giảm quân số, cho những người lớn tuổi, những quan chức tham nhũng và vây cánh của họ nghỉ hưu. Ông đã nhấn mạnh việc tuyển dụng nhiều thanh niên có nền giáo dục tốt hơn những người có thể điều khiển công nghệ cao khi điều đó dứt khoát sẽ xảy ra. Để thay vào sự bổ nhiệm và tham nhũng trong quân đoàn, ông đã áp đặt kỉ luật nghiêm khắc trong tất cả các cấp bậc. Trong năm 1982 ông đã thành lập một ủy ban mới cho Khoa học, Kĩ thuật và Công nghiệp cho Quốc phòng để kế hoạch sử dụng sự phát triển công nghệ trong lĩnh vực dân sự.[24][25]

Đặng đã làm rất ít để cải thiện mối quan hệ nghèo nàn với Brezhnev và Kremlin trong những năm đầu cầm quyền của ông. Ông đã tiếp tục tuân thủ đường lối chủ nghĩa Mao về thời kì Chia rẽ Xô-Trung mà Liên Xô như những siêu cường quốc "bá chủ" như Hoa Kỳ, nhưng nó đe dọa tới Trung Quốc hơn bởi vì hai nước biên giới sát nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ với Liên Xô đã cải thiện kể từ khi Mikhail Gorbachev nắm quyền năm 1985, và cuối cùng đã khôi phục quan hệ cấp quốc gia với việc Đặng họp với Gorbachev năm 1989 trong Hội nghị Xô - Trung 1989.

Xung đột Việt - Trung (1979-1990)

Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện đại và vừa dọn đường đánh Việt Nam. Ngày 28 tháng 01 năm 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ nhằm bình thường hoá quan hệ hai nước. Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2 năm 1979, Đặng Tiểu Bình triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Đặng Tiểu Bình đưa khoảng từ 300 ngàn đến 600 ngàn quân tấn công Việt Nam. Sự kiện này được ghi nhận là chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 mà kéo dài cho tới 1990 (xem Xung đột Việt–Trung 1979–90).

Một mô hình được dựng lại về cuộc gặp giữa Đặng Tiểu Bình và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher, năm 1984, Thâm Quyến

Động cơ chính của Trung Quốc trong tấn công Việt Nam là kiềm chế tham vọng Việt NamĐông Nam Á, ngăn chặn mối đe dọa Việt Nam đối với an ninh quốc gia Trung Quốc và phơi bày chỗ yếu của Liên Xô. Ý định của Đặng Tiểu Bình nêu công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” đã tạo ra một ấn tượng sai lệch rằng mục đích chính của cuộc chiến chỉ đơn giản là một “hành động trả thù”. Ngay từ đầu, Bắc Kinh đã hạn chế nghiêm ngặt các mục tiêu, thời gian và phạm vi, và tiến hành chiến tranh tránh vượt hơn một cuộc xung đột biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, sau khi Việt Nam đã đưa quân dánh đuổi chế độ Pol PotCampuchia, một đồng minh của Trung Quốc.[26] Trung Quốc mở rộng mục tiêu gồm cả việc xâm lược vùng Tây Bắc Việt Nam. Suốt một thời gian dài sau đó, chính sách bao vây kinh tế và pháo kích biên giới của Đặng Tiểu Bình đã gây nhiều khó khăn cho Việt Nam.[27]

Sự hoàn lại Hồng Kông và Ma Cao

Từ năm 1980 trở đi, Đặng đã lãnh đạo sự phát triển kinh tế và về mặt chính trị đã thương lượng với thủ tướng Anh để hoàn lại lãnh thổ Hồng Kông, cuộc gặp cá nhân với Thủ tướng Anh lúc ấy là Margaret Thatcher. Thatcher đã tham dự cuộc gặp với hi vọng giữ sự quản lý của Anh lên Bán đảo Hồng Kông và Cửu Long- hai trong ba phần lãnh thổ hợp thành của thuộc địa- nhưng điều đó đã được từ chối dứt khoát bởi Đặng. Những kết quả đàm phán được gọi là Tuyên bố chung Trung-Anh , được ký vào 19 tháng 12 năm 1984, thứ đã chính thức vạch ra sự trả lại của Anh tới Trung Quốc thuộc địa Hồng Kông của họ vào năm 1997. Chính phủ Trung Quốc đã cam kết tôn trọng hệ thống kinh tế và quyền tự do dân sự của thuộc địa Anh trong 50 năm sau khi bàn giao.[28]

Dưới sức ép từ Trung Quốc, Bồ Đào Nha đồng ý năm 1987 trả lại Ma Cao năm 199, với một thỏa thuận tổng thể giống với Hồng Kông. Để quản lý hai lãnh thổ mới được trả về, Đặng đã dựa trên một một nguyên tắc chính trị được đề ra bởi ông mà ông gọi là "một quốc gia, hai chế độ", điều ám chỉ tới việc cùng tồn tại dưới một quyền lực chính trị với những hệ thống kinh tế khác nhau của cộng sản và tư bản. Mặc dù lý thuyết này được áp dụng cho Hồng Kông và Ma Cao, Đặng có vẻ cũng muốn làm điều này với Đài Loan.[29]

Ba bước để phát triển kinh tế

Vào tháng 10 năm 1987, Kì họp toàn thể của Đại hội nhân dân quốc gia, Đặng được bầu lại với chức vụ Chủ tịch quân ủy trung ương, nhưng ông đã từ chức Chủ tịch của Ủy ban cố vấn Trung ương và được kế tục bởi Trần Vân. Đặng tiếp tục để chủ trì và phát triển cải cách và mở cửa như là chính sách cơ bản. và ông đã đưa ra ba bước cho chiến lược phát triển nền kinh tế Trung Quốc, trong vòng 7 năm: bước một, gấp đôi GNP năm 1980 và bảo đảm rằng người dân đủ cơm ăn và áo mặc, điều đã đạt được vào cuối những năm thập kỉ 1980; bước hai, tăng gấp 4 lần GNP năm 1980 khi thế kỉ 20 kết thúc, điều đã đạt được năm 1995 trước mốc đã đề ra; bước thứ 3, tăng phần trăm theo đầu người GNP, tới mức của những nước phát triển trung bình khoảng năm 2050, tại thời điểm đó, người Trung Quốc sẽ thật sự sung túc và hiện đại hóa sẽ được thực hiện cơ bản.[30]

Cải cách kinh tế

Cải thiện những mối quan hệ với thế giới bên ngoài là điều thứ hai trong hai bước thay đổi khôn ngoan quan trọng được vạch ra trong chương trình cải cách của Đặng được đặt tên là "Cải cách và Mở cửa" (Gaige Kaifang). Xã hội, chính trị hệ thống kinh tế Trung Quốc sẽ trải qua những thay đổi quan trọng trong thời kì Đặng nắm quyền. Những mục tiêu cải cách của Đặng được tóm tắt bởi "Bốn hiện đại hóa", đó là nông nghiệp, công nghiệp, khoa học và công nghệ, và quân sự.

Chiến lược cho việc đạt được những mục tiêu trong việc trở thành một quốc gia hiện đại, công nghiệp là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đặng đã thảo luận rằng Trung Quốc đang trong thời kỳ chủ nghĩa xã hội nguyên thủy và nhiệm vụ của đảng là hoàn thiện điều gọi là "chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc" và "tìm kiếm bản chất vấn đề từ những thứ xác thực". (Điều đó khá giống với lý thuyết của Lenin trong Chính sách kinh tế mới trong những năm 1920, mà đã lập luận rằng Liên Xô đã không tiến đủ sâu vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản và do đó cần chủ nghĩa tư bản một cách giới hạn để phát triển đầy đủ phương tiện sản xuất của nó).[13][31]

Những giải thích trong Chủ nghĩa Mao đã làm giảm vai trò của hệ tư tưởng trong việc quyết định kinh tế. Giảm những nguyên tắc cộng sản nhưng không nhất thiết chỉ trích Chủ nghĩa Marx - Lenin, Đặng đã nhấn mạnh rằng "chủ nghĩa xã hội không có nghĩa là chia sẻ sự nghèo khó". Lý thuyết của ông biện bạch cho sự sự thừa nhận thị trường tự do [32] được viết như sau:

"Kế hoạch hóa và thị trường tự do không phải là sự khác nhau cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Một nền kinh tế kế hoạch không phải định nghĩa cho chủ nghĩa xã hội, bởi vì có kế hoạch hóa trong chủ nghĩa tư bản; kinh tế thị trường cũng xảy ra trong chủ nghĩa xã hội. Kế hoạch hóa và thị trường tự do là cả hai cách trong quản lý hoạt động kinh tế"[33]

Khác với Hoa Quốc Phong, Đặng đã tin rằng không chính sách nào nên bị từ chối hoàn toàn đơn giản bởi vì nó không tỏ ra đồng ý với Mao. Không giống với nhiều lãnh đạo bảo thủ như Trần Vân, Đặng không phản đối tới những chính sách lên các lĩnh vực mà chúng giống với một trong trong số các chính sách được tìm thấy trong các quốc gia tư bản.

Những nền tảng chính trị linh hoạt trong mối quan hệ với chủ nghĩa xã hội được ủng hộ mạnh mẽ bởi những trích dẫn như:

Chúng ta không phải lo lắng để chấp nhận những phương pháp điều hành cấp cao được ứng dụng trong những quốc gia tư bản (...) Nhiều tính chất của chủ nghĩa xã hội là tự do và phát triển hệ thống sản xuất (...) Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường là không phải kỵ nhau (...) Chúng ta phải đề cập tới sự hữu khuynh, những trên hết, chúng ta phải đề cập về sự tả khuynh.[34]

Mặc dù Đặng đã đưa ra lý thuyết nền tảng và ủng hộ chính trị để cho phép cải cách kinh tế xảy ra, sự nhất trí chung giữa những sử gia là chỉ một vài cải cách kinh tế mà Đặng đã giới thiệu được tạo ra bởi chính bản thân ông. Thủ tướng Chu Ân Lai, ví dụ, đã tiên phong cho Bốn hiện đại hóa nhiều năm trước Đặng. Ngoài ra, nhiều cải cách có thể được giới thiệu bởi những lãnh đạo địa phương, thường không được cho phép trực tiếp bởi chính quyền trung ương. Nếu thành công và triển vọng, những cải cách đó sẽ được chấp nhận bởi những khu vực rộng lớn khác và cuối cùng được giới thiệu cả nước. Một ví dụ được trích dẫn thường xuyên là "hệ thống kinh tế hộ gia đình", chính sách ban đầu bí mật được thực hiện bởi một làng nông thôn nghèo tại lúc mà có thể rủi ro bị kết án là "phản cách mạng". Kinh nghiệm đó đã chứng minh thành công. Đặng công khai củng hộ nó và nó sau đó được chấp nhận khắp cả nước. Nhiều cải cách khác bị ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm của những quốc gia phát triển ở châu Á, gọi là Bốn con hổ châu Á.

Điều đó tương phản rõ nét với khuôn mẫu trong cải tổ (perestroika)được thực hiện bởi Mikhail Gorbachev mà những cải cách chính được tạo ra bởi chính Gorbachev. Những cải cách tiếp cận từ dưới lên của Đặng, tương phản với tiếp cận từ trên xuống của perestroika, có thể là một nhân tố then chốt trong những thành công của ông.

Những cải cách của Đặng thật sự bao gồm việc đưa vào việc điều hành kế hoạch hóa, tập trung hóa nền kinh tế vĩ mô bởi những nhà kỹ trị, từ bỏ những kiểu chiến dịch quần chúng về xây dựng kinh tế. Tuy nhiên không giống phong cách Xô viết, sự điều hành gián tiếp thông qua cơ chế thị trường. Đặng đã duy trì di sản của Mao để ở mức độ nào đó mà ông đã nhấn mạnh vai trò hàng đầu của năng suất nông nghiệp và đã khuyến khích một sự phân quyền quan trọng của việc thực hiện quyết định trong những hợp tác xã kinh tế nông thôn và kinh tế hộ cá thể nông dân. Ở cấp địa phương, khích lệ vật chất, phần nào hơn tuyên truyền chính trị, được dùng để thúc đẩy lực lượng lao động, bao gồm cho phép người nông dân kiểm thêm thu nhập bằng việc bán sản phẩm tư nhân của họ theo giá thị trường.

Trấn áp những cuộc biểu tình và bạo loạn trên quảng trường Thiên An Môn

Những cuộc biểu tình và bạo loạn trên quảng trường Thiên An Môn, kết thúc vào ngày tàn sát 6 tháng 4 năm 1989, là một loạt những cuộc biểu tình trong và gần quảng trường Thiên An Môn trong Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa khoảng từ 15 tháng 4 tới 5 tháng 6 năm 1989, năm mà nhiều chính phủ cộng sản khác trên thế giới sụp đổ.[35][36]

Những cuộc biểu tình xảy ra bởi sự kiện cái chết của Hồ Diệu Bang, một quan chức cải cách được hậu thuẫn bởi Đặng nhưng bị gạt ra bởi Bát đại nguyên lão và những người bảo thủ trong bộ chính trị. Nhiều người đã không hài lòng với phản ứng chậm chạp của đảng và sự chuẩn bị đám tang tương đối lặng lẽ. Quần chúng đau buồn đã bắt đầu đổ ra đường ở Bắc Kinh và các trường đại học trong những khu vực xung quanh. Ở Bắc Kinh đám đông tập trung tại Đài tưởng niệm Anh hùng nhân dân ở quảng trường Thiên An Môn. Sự đau buồn đã trở thành một sự kết nối quần chúng về sự tức giận chống lại nạn gia đình trị trong chính phủ, sự thải hồi bất công và cái chết sớm của Hồ, và vai trò đằng sau hậu trường của các nguyên lão trong Bộ chính trị. Khắp mọi nơi của đám tang Hồ, cuộc biểu tình đạt tới con số 100.000 người ở quảng trường Thiên An Môn. Trong khi những người biểu tình thiếu một nguyên nhân thống nhất hoặc lãnh đạo, người tham gia đã đưa vấn đề tham nhũng trong chính phủ và một vài tiếng nói đã kêu gọi cho tự do kinh tế và cải cách dân chủ trong cấu trúc của chính phủ trong khi những người khác kêu gọi phải ít độc đoán hơn và bớt tập trung hóa hình thức của chủ nghĩa xã hội.

Vào năm 1989, Sự kiện Thiên An Môn diễn ra, đây là cuộc biểu tình đòi dân chủ của các sinh viên Trung Quốc. Một số nguồn cho rằng Đặng Tiểu Bình theo phe ủng hộ sự thay đổi trong nền kinh tế Trung Quốc, cùng với một số đồng minh như Triệu Tử Dương. Không có một báo cáo chính xác về vai trò của Đặng Tiểu Bình trong cuộc biểu tình, dù có một số người tin rằng ông ta đã tham gia vào việc ra lệnh cho quân đội trấn áp cuộc biểu tình. Theo ước đoán của tờ New York Times thì có ít nhất 10,000 thường dân thiệt mạng trong cuộc đụng độ. Sau sự kiện Thiên An Môn, Trung Quốc thực hiện lùng bắt một cách có quy mô những người ủng hộ phong trào này, giới hạn các nhà báo nước ngoài và kiểm duyệt tất cả báo chí trong nước. Sự kiện này bị các nước phương Tây lên án, cho đến tận ngày nay đa số người dân Trung Quốc không biết đến sự kiện này do Trung Quốc kiểm duyệt rất gắt gao.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đặng Tiểu Bình //nla.gov.au/anbd.aut-an36730148 http://english.peopledaily.com.cn/dengxp/ http://www.gov.cn/english/2008-01/14/content_85729... http://www.china.org.cn/english/features/38199.htm http://www.china.org.cn/english/features/dengxiaop... http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2014/08/1408... http://chinaconnectu.com/wp-content/pdf/DengXiaopi... http://www.marxist.com/Asia/tiananmen_rl.html http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb12988100v